Hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, vi phạm nhãn hiệu và gây tổn hại nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu, phân tích dưới đây của Nhóm PV Tạp chí Pháp luật cho thấy các đối tượng thường sử dụng những thủ đoạn nào, từ đó đề xuất các giải pháp phòng, chống.
Với lượng người dùng khổng lồ và hầu như không bị kiểm soát, trên các nền tảng mạng xã hội phổ biến hay sàn thương mại điện tử… thu hút hàng triệu lượt truy cập mỗi ngày là điều không thể bỏ qua. trở thành “môi trường tạo điều kiện” làm gia tăng các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Thống kê cho thấy, hàng năm ước tính có hàng nghìn vụ việc hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, kinh doanh có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.
Hàng loạt sản phẩm “na ná” các hãng nổi tiếng; hay “treo đầu dê bán thịt chó” không rõ nguồn gốc nhưng gắn mác made in Vietnam. Riêng trong năm 2021, cơ quan quản lý thị trường phối hợp với Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số đã điều tra hơn 3.000 trường hợp lợi dụng mua sắm trực tuyến để kinh doanh hàng thật, hàng giả phạt tiền lên đến 20 tỷ đồng.
Mới đây nhất (30/9), Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an khuyến cáo người dân không đầu tư vào “Vinpearl E-Platform”; không phát tán thông tin trái phép, vi phạm quyền công nghiệp hoặc bảo vệ thương hiệu Vinpearl; không sử dụng, nạp lại địa chỉ vinpearl E-platform.
Cảnh báo ngay cho người thân, bạn bè về các “dự án ma” với tính chất lừa đảo, chiếm đoạt tài sản… là “cú hích cuối cùng”. Công ty cổ phần Vinpearl khẳng định công ty và Vingroup không có dự án hay nền tảng nào mang tên “Nền tảng đầu tư mới Vinpearl E+”.
Phát hiện các thủ đoạn xâm phạm nhãn hiệu
Trong bối cảnh khung pháp lý chưa đầy đủ, nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh và nguy hiểm gia tăng và nguy hiểm hơn.
Do không gian hoạt động của tội phạm không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và môi trường thực tế; mở rộng tự do vào không gian mạng toàn cầu và thu hút các tổ chức cũng như cá nhân nước ngoài tham gia. Căn cứ diễn biến vụ việc, vụ việc có thể nhận diện phương thức, thủ đoạn của tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhãn hiệu thông qua mạng xã hội như sau:
Một là: Mượn pháp nhân của chính doanh nghiệp có thương hiệu nổi tiếng (được nhiều người biết đến) để sử dụng trái phép logo, thương hiệu và hình ảnh của doanh nghiệp đó đã được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bằng thủ đoạn thiết lập các trang web, tài khoản, trang, nhóm, kể cả nền tảng mới để quảng bá, mời chào bằng những lời có cánh, hấp dẫn, kêu gọi đầu tư trái phép vào những dự án ảo, nhằm chiếm đoạt tài sản.
Nạn nhân của thủ đoạn này thường là những nhà đầu tư thiếu thông tin. Điển hình như vụ của Công ty Cổ phần Vinpearl mới đây bị bọn tội phạm sử dụng trái phép logo, thương hiệu và hình ảnh trên các nền tảng xã hội, để quảng bá nội dung không có thực: “Tập đoàn VINGROUP cho ra mắt nền tảng đầu tư quảng báo trực tuyến về khách sạn cao cấp khu nghỉ dưỡng VINPEAL với chính sách hỗn dẫn”, để kêu gọi đầu tư vào nền tảng mới mang tên “Vinpearl E Nền tảng đầu tư mới 4.0” với cam kết “siêu lợi nhuận”…
Đối với những thủ đoạn như thế này, nếu như Cục An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao và các cơ quan có thẩm quyền khác không kịp thời phát hiện và cảnh báo thì hậu quả sẽ rất khó lường.
Hai là: Dùng chính pháp nhân của mình để đánh cắp bản quyền nhãn hiệu nổi tiếng của doanh nghiệp đã đăng ký và được bảo hộ quyền sở hữu, “hô biến” thành tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để khai thác trục lợi thông qua các nền tảng mạng xã hội. Nạn nhân của chiêu thức, thủ đoạn này cũng là những đối tượng thiếu thông tin chính thống về chủ sở hữu hợp pháp nhãn hiệu.
Điển hình của thủ đoạn này là hành vi của hai nhà sản xuất phim hoạt hình có trụ sở tại London – Great Britain là Entertainment One UK Limited và Astley Baker Davies Limited (EO) – đã dẫn đến việc Công ty TNHH Đầu tư bán công nghệ và dịch vụ cho Sconnect Việt Nam (Sconnect).
Như vậy, ngoài việc đánh cắp bản quyền phim hoạt hình Wolfoo, EO còn vi phạm nhãn hiệu nổi tiếng Wolfoo, theo đơn kiện của Sconnect gửi tòa án Vương quốc Anh vào tháng 2/2022. Cụ thể, Sconnect phát hiện EO sử dụng từ khóa từ Wolfoo trong một số Peppa Video heo và đề nghị cơ quan có thẩm quyền nộp hồ sơ cấp phép vi phạm nhãn hiệu của EO Wolfoo.
Theo bản khai có tuyên thệ nộp lên tòa án Anh vào tháng 7 năm 2022, EO thừa nhận đã sử dụng từ khóa Wolfoo trong các video và kênh Peppa Pig để thu hút người xem. Tuy nhiên, tòa án Anh đã không giải quyết vấn đề cho đến nay.
Ba là: Sử dụng các dấu hiệu nhận biết trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó đã được bảo hộ, khiến người sử dụng dễ nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ.
Hoặc sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, làm người sử dụng sản phẩm và dịch vụ nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng…
Điển hình cho thủ đoạn này là vụ án hình sự “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” đối với bia SaiGon VietNam xảy ra tại ấp Bắc 2, xã Hòa Long, TP Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xảy ra vào tháng 9/2020.
Công ty CP Tập đoàn Bia Sài Gòn Việt Nam hợp tác cùng Cơ sở bia BiVa để sản xuất bia mang nhãn hiệu Bia Sài Gòn Việt Nam bán ra thị trường với quy mô thương mại, có kiểu dáng, nhãn hiệu sản phẩm có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa đối với nhãn hiệu Bia Sài Gòn đã được bảo hộ, thuộc sở hữu của Sabeco.
Trước đó năm 2018, vụ Asanzo Việt Nam đã sử dụng nhãn hiệu Asanzo có kiểu dáng, mẫu mã giống với nhãn hiệu Asano của Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất Đông Phương được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu.
Năm 2015 là vụ tranh chấp nhãn hiệu mì Hảo Hảo của Acecook với sản phẩm mì Hảo Hạng của AsiaFoods. AsiaFoods đã sử dụng mì Hảo Hảo nổi tiếng của Acecook nên sản xuất mì Hảo Hạng “nhái” với mẫu mã giống màu sắc chủ đạo của font chữ, sợi mì, sợi mì và bao bì. một mặt hàng khiến người tiêu dùng khó nhận biết hàng giả. Nhưng nhờ được bảo hộ nhãn hiệu, Công ty Đông Phương và Acecook đã thắng kiện…
Thứ tư: Lợi dụng quy định của Luật Sở hữu trí tuệ không bắt buộc nhãn hiệu nổi tiếng phải đăng ký quyền sở hữu tại Cục SHTT hay mở rộng thị trường đầu tư, thương mại, một số DN “dọa” đẩy nhanh thủ tục đăng ký bảo vệ nhãn hiệu tài sản sở hữu trí tuệ .
Bao gồm cả nhãn hiệu; nhiều tổ chức, cá nhân nộp đơn đăng ký nhãn hiệu một cách “chóng vánh”. Hệ quả là nhiều công ty đánh mất thương hiệu hoặc phải tốn nhiều thời gian, công sức để “kích hoạt” và tái tạo thương hiệu.
Câu chuyện Công ty Trung Nguyên đứng trước nguy cơ mất thương hiệu Cà phê Trung Nguyên khi mở rộng thị trường tại Hoa Kỳ (năm 2000) do chậm đăng ký sở hữu là bài học đắt giá vẫn còn nguyên giá trị đến tận ngày nay. Trung Nguyên phải mất 2 năm và hàng trăm nghìn USD để lấy lại nhãn hiệu từ Công ty Cánh đồng lúa.
Gần đây nhất, vào năm 2021, Beluga Vodka International Limited (một công ty lớn của Nga chuyên kinh doanh và sản xuất đồ uống có cồn) đã đấu tranh để giành lại quyền sở hữu thương hiệu Belenkaya tại Việt Nam. Sản phẩm rượu vodka “Беленькая” (phiên âm tiếng Latinh là “Belenkaya”) được đưa vào thị trường Nga và được tung ra thị trường hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới từ năm 2001.
Năm 2012, sản phẩm được giới thiệu ra thị trường Nga. sản phẩm rượu vodka “Belenkaya” được tiếp thị và tiêu thụ tại Việt Nam do Công ty TNHH BELUGA Việt Nam chịu trách nhiệm nhập khẩu và phân phối.
Tuy nhiên, do nhãn hiệu “Belenkaya” đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới nên công ty BELUGA đã không đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, do sản phẩm mang nhãn hiệu “Belenkaya” đã được phân phối tại thị trường Việt Nam.
Ngày 12/3/2018, Công ty TNHH Intel Kitchen (Hà Nội) đã nộp đơn lên Cục Sở hữu trí tuệ đăng ký nhãn hiệu “Belenkaya” và đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Người tiêu dùng Việt Nam lầm tưởng rằng công ty BELUGA sản xuất và đưa ra thị trường các sản phẩm có nhãn “Belenkaya”.
Chế tài xử lý còn yếu và còn nhiều bất cập, hạn chế
Cho đến nay, bên cạnh luật sở hữu trí tuệ, các hành vi vi phạm nhãn hiệu phải được quy định bằng luật hành chính, dân sự, hình sự. Tuy nhiên, các nghiên cứu về thực thi chính trị cho thấy chế tài chưa đủ mạnh để răn đe tội phạm, cơ chế tổ chức thực thi chế tài còn nhiều bất cập.
Cụ thể:
Xử phạt vi phạm hành chính: Thực tiễn thi hành các biện pháp liên quan đến khởi tố các hành vi xâm phạm quyền công nghiệp cho thấy, cho đến nay biện pháp xử lý vi phạm hành chính vẫn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất do thủ tục đơn giản.
Đặc biệt nếu chủ thể quyền bị vi phạm thì bước đầu tiên là chọn biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm càng sớm càng tốt. Theo thống kê của Cục SHTT, có tới 95% các vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử lý hành chính. Tuy nhiên ngay cả hình thức chế tài này cũng khó thực thi triệt để.
Để triển khai thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, ngày 29/08/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Theo đó, tại Điều 11 Nghị định 99/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, mức phạt cao nhất đối với hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp là 250.000.000 đồng.
Trong trường hợp giá trị hàng hóa vi phạm trên 500.000.000 đồng. Theo các chuyên gia mức phạt này là quá nhẹ chưa tương xứng so với nguồn thu có được từ hành vi xâm hại nhãn hiệu.
Tuy nhiên bất cập chủ yếu nằm ở chỗ, để cơ quan có thẩm quyền áp dụng mức phạt 250.000.000 đồng đối với chủ thể có hành vi vi phạm nhãn hiệu, chủ thể có nhãn hiệu bị xâm hại phải tự mình giám định hàng hóa vi phạm có mức độ thiệt hại trên 500.000.000 đồng và kết quả giám định này phải được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận…
Điều 26 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP của Chính phủ: “Người có thẩm quyền xử lý vi phạm có thể dựa trên văn bản cam kết xác nhận hàng hóa, dịch vụ giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp, văn bản ý kiến chuyên môn của cơ quan nhà nước về sở hữu công nghiệp, văn bản kết luận giám định để xác định hành vi vi phạm nhưng phải chịu trách nhiệm”.
Kết luận giám định được coi là nguồn thông tin so sánh mà cơ quan có thẩm quyền phải xem xét trước khi ra quyết định.
Trong hầu hết các trường hợp cần điều tra và truy tố hành vi xâm phạm (với nhãn hiệu đã được bảo hộ), chủ sở hữu quyền phải tiến hành đánh giá trước khi đưa ra kết luận về hành vi xâm phạm. vi phạm được coi là “tạm đủ” để làm căn cứ lập thủ tục, xem xét… Có nơi còn phải thu phí để cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết. kiểm tra và tạm tịch thu hàng hóa, vật phẩm có dấu hiệu vi phạm nhãn hiệu.
Ngoài ra, Điều 3 Khoản 3 Quy định 99/2013/NĐ-CP cũng nêu rõ: Đối với mọi hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, ngoài hình thức xử phạt cơ bản (phạt tiền) còn phải áp dụng hình thức xử phạt. hình phạt bổ sung là “đình chỉ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm từ 01 tháng đến 03 tháng…”.
Xét một cách đầy đủ và toàn diện, có thể thấy việc áp dụng hình phạt bổ sung này là không khả thi. Do tang vật vi phạm đã bị thu giữ, tiêu hủy hoặc di dời nên việc đình chỉ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa vi phạm trong một thời hạn là không thể chấp nhận được. Hoặc có thể hiểu sau thời hạn đình chỉ đối tượng vẫn tiếp tục sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm…
Tuy nhiên, điều này không phù hợp với đề xuất xử phạt hành vi vi phạm.
Những thiếu sót trong nội dung của các quy định nói trên dẫn đến cách hiểu và áp dụng không đồng đều giữa các địa phương và giữa các cơ quan kiểm soát quyền công nghiệp. Điều này dẫn đến những hệ quả sau:
- Việc thực thi quyền bị chậm trễ, kéo dài; cùng một loại hoạt động nhưng chịu các chế tài khác nhau;
- Do vi phạm thẩm quyền, thủ tục xử lý của cơ quan có thẩm quyền nên có nguy cơ vụ việc bị xử lý có thể bị khởi kiện, hủy hoặc hủy bỏ, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong cán bộ công an.
- Trực tiếp phục vụ các cơ quan cấp thấp
Về xử lý hình sự: Điều 226 BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017) quy định: “Người nào cố ý xâm phạm quyền công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ tại Việt Nam là hàng hóa giả mạo của nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý.
Chỉ dẫn địa lý mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Quy định trên được hiểu là để truy cứu trách nhiệm hình sự Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh được chủ thể có hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam phải thỏa mãn điều kiện hàng hóa giả mạo nhãn hiệu (tức là thỏa mãn 4 dấu hiệu nhận biết được quy định tại khoản 1 Điều 129 Luật SHTT)
Thỏa mãn về quy mô thương mại thu lợi bất chính của chủ thể có hành vi vi phạm, hoặc thỏa mãn được ngưỡng thiệt hại của chủ thể bị vi phạm nhãn hiệu, hoặc ngưỡng giá trị đối với “hàng hóa vi phạm”. Tuy nhiên thuật ngữ “quy mô thương hiệu”, đến thời điểm này chưa có văn bản nào dưới luật hướng dẫn chi tiết (ngoài Thông tư Liên tịch số 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 29/02/2008 hướng dẫn việc truy cứu TNHS
Đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT nhưng cũng không giải thích thế nào là đạt “quy mô thương mại” theo quy định), khiến cho các cơ quan tố tụng khi vận dụng còn gặp nhiều lúng túng.
Trong khi đó liên quan đến thuật ngữ “giả mạo nhãn hiệu”, tại Điều 61 Hiệp định TRIPS còn quy định: “Các thành viên phải quy định việc áp dụng các thủ tục hình sự và các hình phạt để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố tình giả mạo nhãn hiệu hàng hoá…”.
Thế nhưng cũng chưa được giải thích trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào mà chủ yếu được suy luận từ khái niệm “giả mạo hàng hóa”, được quy định tại Điều 213 Luật SHTT năm 2005: “Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hóa sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này”.
Từ đó dẫn tới các vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi áp dụng khi xử lý hình sự, các cơ quan có thẩm quyền thường nhẫm lẫn với tội sản xuất buôn bán hàng giả.
Mặt khác, để chứng minh ngưỡng giá trị gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu không phải là câu chuyện dễ dàng. Vì thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp nên sự phát triển của thương hiệu đi liền với sự mở rộng và phát triển của doanh nghiệp.
Điều này có nghĩa là để xác định mức độ thiệt hại đối với thương hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu, cần phải tìm hiểu các chi phí mà công ty đã bỏ ra để xây dựng thương hiệu hoặc giải thích lợi ích thu được từ việc sử dụng nhãn hiệu (bao gồm tiếp thị, quảng cáo, tiết kiệm thời gian và tiền lương do sử dụng nhãn hiệu)…
Trên thực tế, không có phương pháp nào như vậy tồn tại. giá trị thương hiệu mang lại con số tuyệt đối, bởi đôi khi doanh nghiệp bỏ tiền ra xây dựng thương hiệu nhưng chưa chắc việc gia tăng giá trị thương hiệu xảy ra.
Do đó, không có gì ngạc nhiên khi gần đây tòa án có thẩm quyền xử lý quá ít vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (trong khi 95% vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được xử lý bằng biện pháp hành chính). Đặc biệt, trong số ít này, số vụ kiện vi phạm nhãn hiệu do tòa án có thẩm quyền khởi kiện và nguyên đơn thành công còn thấp hơn…
Trong tương lai gần. Tương lai trong thời đại thủ đoạn ngày càng phức tạp, khó lường. Để tránh trường hợp trùng hợp, vụ việc mang tính tình thế, bất cập về hành lang pháp lý của quy định (như đã phân tích ở trên), chúng tôi thấy rằng phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Ưu tiên đặc biệt của họ là loại bỏ các trở ngại đối với việc thực thi các biện pháp trừng phạt được thiết kế để ngăn chặn tội phạm. Đặc biệt, các cơ quan chức năng cần:
Sửa đổi, bổ sung các quy định điều chỉnh quyền sở hữu nhãn hiệu tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, theo hướng tạo thuận lợi cho các chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu dễ dàng tiếp cận và phát huy có hiệu quả quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử phạt VPHC.
Đó là khi chủ thể quyền sở hữu công nghiệp hoặc người đại diện ủy quyền chủ thể quyền sở hữu công nghiệp phát hiện có hành vi vi phạm và có đơn yêu cầu xử lý vi phạm thì cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng vào cuộc xác minh làm rõ để xử lý kịp thời; mà không nhất thiết phải chờ đủ 30 ngày để chủ thể có đơn yêu cầu cung cấp đầy đủ chứng cứ và thông tin xác định (như theo quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 25).
Hơn nữa, không phải bất cứ hành vi nào vi phạm, chủ thể bị vi phạm cũng có thể tự mình tiếp cận và dễ dàng khai thác được chứng cứ của bên đối kháng; nếu có cũng chỉ là những tài liệu, chứng cứ ban đầu vì còn liên quan đến bí mật kinh doanh của doanh nghiệp…
Song song bên cạnh đó, cần định vị lại thẩm quyền xử lý vi phạm quyền SHTT trong TMĐT cho một cơ quan chuyên trách nhất định. Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu tinh gọn bộ máy quản lý, tránh trùng lặp, xung đột thẩm quyền.
Đồng thời, cần thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền quản lý và cơ quan chuyên môn để việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm đạt hiệu quả, đảm bảo tối đa quyền lợi chính đáng của chủ thể quyền.
Liên quan đến rào cản chế tài hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền nhãn hiệu được quy định tại Điều 226 BLHS năm 2015, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đường lối xử lý hình sự đối với hành vi giả mạo nhãn hiệu hàng hoá, sản phẩm; trong đó làm rõ 2 thuật ngữ: “giả mạo nhãn hiệu” và “quy mô thương mại” theo hướng có nội hàm dễ nhận diện và không bị nhầm lẫn sang đối tượng điều chỉnh khác.
Theo chúng tôi việc giải thích dấu hiệu “với quy mô thương mại” có thể xác định dựa trên giá trị hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc thu lợi bất chính từ việc mua bán các loại mặt hàng này.
Đặc biệt là cơ chế để chứng minh ngưỡng giá trị gây thiệt hại đối với chủ sở hữu nhãn hiệu, phải được quy định bằng phương pháp xác định giá trị nhãn hiệu thương mại chuyên biệt mang tính đặc thù, có tiêu chí nhận diện không quá phức tạp, để cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng thực hiện điều tra, truy tố và xét xử…
Về lâu dài chúng tôi cho rằng, cần phải nghiêm túc tính đến khả năng và lộ trình thành lập Tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, trực thuộc Tòa án nhân dân cấp cao, có vai trò xét xử phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật.
Đồng thời, các cơ chế tố tụng dân sự hiện hành liên quan đến việc giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ cũng cần được xem xét, sửa đổi theo hướng rút gọn, đơn giản hóa cơ chế tiếp nhận xét xử, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời… để bảo đảm tốt hơn, kịp thời hơn cho quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Trước mắt khi pháp luật còn chưa hoàn thiện, chúng tôi khuyến nghị các doanh nghiệp cần chủ động bảo vệ nhãn hiệu bằng việc chủ động đăng ký quyền sở hữu nhãn hiệu để được bảo hộ. Bài học từ vụ tranh chấp nhãn hiệu Hảo Hảo của Acecook hay nhãn hiệu Bia Sài Gòn của Sabeco… cho thấy, dù có “lật kèo” thì cuối cùng quyền lợi vẫn thuộc về nguyên đơn nhờ được bảo hộ nhãn hiệu đã đăng ký.
Tham khảo thêm về những thương hiệu nhượng quyền khác cùng Nhượng Quyền Việt, xem tại đây!
Để quảng cáo thương hiệu nhượng quyền, đăng tin cho thuê mặt bằng, đăng tin tuyển dụng vui lòng liên hệ với chúng tôi thông qua hello@nhuongquyenviet.vn