Các vấn đề pháp lý liên quan nhượng quyền thương mại tại Việt Nam

Thực tiễn, hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển, các vấn đề pháp lý liên qua đang được nhiều chủ thể trên thế giới quan tâm rất tích cực. Tại Việt Nam, mô hình kinh doanh này mới phát triển mạnh vài năm trở lại gần đây khi những lợi ích lớn do mô hình này đem lại. Tuy nhiên, muốn hoạt động này phát triển thực sự có hiệu quả thì cần có hành lang pháp lý đầy đủ và ổn định.

Căn cứ pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại

Hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.

Lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam, mục 4.1.1 Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 đã đề cập về “hợp đồng cấp giấy phép độc quyền thương mại” – tiếng Anh là franchise.

Tiếp nữa, Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 quy định chi tiết luật chuyển giao công nghệ cũng liên quan đến hoạt động cấp phép đặc quyền thương mại với tư cách là một nội dung của hoạt động chuyển giao công nghệ.

Theo Điều 4 Khoản 6 Nghị định trên, cấp phép đặc quyền kinh doanh là hoạt động trong trường hợp “bên nhận dùng tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết của bên chuyển giao để thực hiện hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại” (Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT và Nghị định số 11/2005/NĐ-CP đã hết hiệu lực) .

Điều 755 Bộ luật Dân sự 2005 (Đã hết hiệu lực) cũng quy định việc cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong các hoạt động chuyển giao công nghệ.

Đây cũng là những sự công nhận đầu tiên của nhượng quyền thương mại (NQTM) trong pháp luật Việt Nam.

Với việc ban hành của Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực ngày 01/01/2006) , NQTM chính thức được thừa nhận và cụ thể hoá trong 8 điều, từ Điều 284 đến Điều 291. Ngày 31/03/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại đối với hoạt động NQTM (Nghị định số 35/2006/NĐ-CP).

Ngày 25/05/2006, Bộ Thương mại ban hành Thông tư số 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM (sau đây gọi là Thông tư số 09/2006/TT-BTM).

Các văn bản trên đã điều chỉnh một cách toàn diện các hoạt động của NQTM. Ngoài ra, với tính chất phức tạp, hoạt động NQTM cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về khoa học công nghệ, pháp luật cạnh tranh.

Và nhiều văn bản pháp luật khác có liên quan (ví dụ pháp luật quản lý dịch vụ phân phối, pháp luật về thuế, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư, pháp luật phá sản, pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo nhượng quyền thương mại, pháp luật hành chính, pháp luật hình sự, . ..) .

Như vậy, khung pháp lý căn bản về hoạt động NQTM đã được xây dựng, tuy còn đơn sơ song đã tạo nền tảng để NQTM phát triển tại Việt Nam.

Những vấn đề pháp lý căn bản cho nhượng quyền thương mại tại Việt Nam

Hình thức hợp đồng nhượng quyền thương mại:

Theo quy định tại Điều 285 Luật Thương mại: “Hợp đồng NQTM phải được lập thành văn bản hoặc những hình thức khác có hiệu lực pháp lý tương đương”.

Ví dụ như điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và những hình thức tương tự theo quy định của pháp luật.

Việc ghi như thế đảm bảo sự chính xác, đầy đủ của hợp đồng NQTM, là cơ sở pháp lý để mỗi bên thực thi quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và tạo điều kiện cho quá trình hoà giải thành công.

Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng:

Theo quy định tại các Điều 286, 287, 288, 289 Luật Thương mại 2005, mỗi bên sẽ có một số quyền và nghĩa vụ như sau:

Bên chuyển nhượng quyền có ba quyền cơ bản:

Thứ nhất, nhận tiền nhượng quyền;

Thứ hai, tổ chức quảng cáo cho hệ thống NQTM;

Thứ ba, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhượng quyền để đảm bảo tính nhất quán của hệ thống NQTM và sự ổn định trong chất lượng sản phẩm/dịch vụ.

Nghĩa vụ nhất định bên chuyển nhượng quyền

Thứ nhất, cung cấp tài liệu chỉ dẫn về hệ thống NQTM đến bên nhượng quyền;

Thứ hai, đào tạo cơ bản và các hỗ trợ kĩ thuật định kỳ đến bên nhượng quyền nhằm đảm bảo hoạt động theo đúng hệ thống NQTM;

Thứ ba, thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung cấp dịch vụ bằng kinh phí của bên hưởng quyền;

Thứ tư, bảo đảm quyền nhân thân của đối tượng theo quy định trong hợp đồng NQTM;

Thứ năm, đối xử công bằng với những bên có quyền trong hệ thống NQTM.

Bên nhận quyền có quyền

Thứ nhất, yêu cầu bên hưởng quyền thực hiện tất cả các hỗ trợ kỹ thuật có liên quan trong hệ thống NQTM;

Thứ hai, yêu cầu bên hưởng quyền đối xử công bằng với tất cả bên có quyền trong hệ thống NQTM.

Bên nhận quyền được chuyển giao, khai thác quyền thương mại thuộc sở hữu của bên nhượng quyền, do vậy sẽ bị sự ràng buộc từ phía bên trao quyền và những nghĩa vụ đưa ra cho bên nhận quyền cũng lớn tương ứng, gồm:

Thứ nhất, trả tiền chuyển nhượng quyền cùng những nghĩa vụ tài chính khác theo hợp đồng NQTM;

Thứ hai, đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, nguồn vốn cùng nhân sự nhằm tiếp quản những quyền do bên trao quyền thực hiện;

Thứ ba, chấp nhận sự kiểm tra, giám sát theo chỉ dẫn của bên nhượng quyền, tôn trọng những quy định trong quản lý và bố trí hoạt động bán hàng, cung cấp dịch vụ của bên nhượng quyền;

Thứ tư, giữ bí mật những hoạt động thương mại đã được chuyển nhượng quyền, cả sau khi hợp đồng NQTM hoàn tất hay kết thúc;

Thứ năm, ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống của bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng NQTM;

Thứ sáu, điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống NQTM;

Thứ bảy, không được nhượng quyền thương mại trừ trường hợp không có sự đồng ý của bên nhượng quyền.

Quyết định trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và sự ràng buộc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền sau khi kết thúc hợp đồng nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của mỗi bên:

Khoản 2 Điều 13 và Điều 16 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định các điều kiện mà bên nhượng quyền và bên nhận quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.

Theo quy định, các bên chỉ được phép chia tay khi có những lý do xác đáng, đồng thời cho phép bên nhận quyền đơn phương sửa chữa những sai phạm khi thực hiện điều khoản không căn bản của hợp đồng.

Các quy định trên đã tương đối bao quát những trường hợp có thể xảy ra, để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho mỗi bên khi thực hiện hợp đồng NQTM.

Pháp luật nhiều quốc gia cũng quan tâm về việc kết thúc hợp đồng NQTM trong trường hợp nào.

Thông thường, một số quy định pháp luật được thiết kế theo hướng bảo vệ quyền lợi của bên nhận quyền thông qua việc chứng minh bên nhượng quyền có lý do chính đáng để huỷ bỏ hợp đồng hay bằng cách trao cho bên nhận quyền quyền đơn phương sửa chữa vi phạm hợp đồng.

Mặt khác, theo quy định tại Khoản 4 Điều 289 Luật Thương mại, sự liên kết giữa bên chuyển quyền và bên nhận quyền vẫn tiếp tục ngay cả sau khi hợp đồng đã chấm dứt. Theo đó, bên nhận quyền phải giữ bí mật các bí quyết kinh doanh đã được trao quyền sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt.

Khi tham gia các hợp đồng nhượng quyền thương mại, bên chuyển quyền phải cung cấp cho bên nhận quyền thông tin về bí quyết kinh doanh đây là yếu tố quan trọng nhất làm nên thành công cho bên mua quyền. Khi hợp đồng NQTM chấm dứt, công việc kinh doanh của bên chuyển quyền sẽ gặp rủi ro nếu có một bên không có lợi ích liên quan (bên nhận quyền cũ) nắm giữ bí quyết kinh doanh của mình.

Do đó, đây là điều kiện quan trọng nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp cho bên nhận quyền và mang lại sự yên tâm cho bên chuyển quyền khi tham gia các hoạt động NQTM. Quy định về việc công bố thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại.

Quy định của pháp luật Việt Nam trong việc cung cấp thông tin về hệ thống NQTM, theo cơ bản là phù hợp với pháp luật nhiều nước và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế (Công ước mẫu về thông tin NQTM năm 2002 của UNIDROIT) .

Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, tối thiểu 15 ngày làm việc trước thời điểm ký hợp đồng, bên chuyển nhượng quyền có nghĩa vụ gửi bản sao hợp đồng NQTM mẫu và bản giới thiệu hệ thống NQTM của mình đến bên dự kiến nhận quyền, nếu các bên không có thoả thuận khác. Đây là thời gian thích hợp để bên dự định nhận quyền có thể xem xét và suy nghĩ về việc có tham gia vào hệ thống nhượng quyền hay không.

Nghĩa vụ báo cáo của bên nhượng quyền  được xác lập ngay cả sau khi giao kết hợp đồng  trong  quá trình kinh doanh, nếu  bên nhượng quyền có những thay đổi quan trọng trong hệ thống nhượng quyền có thể ảnh hưởng đến bên nhượng quyền

Ảnh hưởng đến hoạt động thương mại của bên nhận quyền dưới hình thức thương mại quốc tế. Nội dung trình bày của bên nhượng quyền rất quan trọng đối với bên  nhận quyền tiềm năng khi quyết định có tham gia vào hệ thống nhượng quyền của bên nhượng quyền hay không.

Vì vậy, nội dung này được pháp luật quan tâm, điều chỉnh và  quy định  chi tiết tại thông tư 09/2006/TT-BTM. Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền thứ cấp cho bên  nhận quyền tiềm năng được bổ sung vào Mục 8, khoản 3 của Quy định số. 35/2006/NĐ-CP nếu quyền thương mại được cấp là quyền thương mại chung.

Vì vậy, ngoài những thông tin trên, bên nhượng quyền thứ cấp  phải cung cấp thêm thông tin về bên nhượng quyền đã cấp quyền kinh doanh cho mình; nội dung của thỏa thuận nhượng quyền thương mại chung; và cách xử lý các hợp đồng nhượng quyền  thứ cấp khi hợp đồng nhượng quyền chính bị chấm dứt.

Quy tắc đăng ký nhượng quyền kinh doanh

Trước khi bắt đầu hoạt động nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền phải đăng ký hoạt động này với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Dựa trên dữ liệu đăng ký, cơ quan chính phủ có thẩm quyền  quyết định liệu công ty có thể tham gia kinh doanh quốc tế hay không.

Nghị định số 120/2011/NĐ-CP của Hội đồng Nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2011 sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính  một số  quy định về thương mại, Quy định số 35/2006/NĐ-CP và Thông tư số 09/2006/ TT -BTM quy định  hồ sơ đăng ký, thủ tục thụ lý, thời gian trả lời của cơ quan  đăng ký, thủ tục chấm dứt đăng ký, đăng ký vào sổ đăng ký doanh nghiệp, thủ tục đăng ký lại.

Nếu doanh nhân chuyển  trụ sở  sang tỉnh khác, thủ tục thay đổi dữ liệu đăng ký doanh nghiệp quốc tế , thủ tục xóa hoạt động đăng ký nhượng quyền thương mại.

Nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến nhượng quyền thương mại

Pháp luật Việt Nam đã quy định các quy định và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực nhượng quyền nhằm đảm bảo môi trường nhượng quyền lành mạnh. phát triển kinh doanh.

Đặc biệt, Quy định số 35/2006/NĐ-CP quy định các hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong hoạt động nhượng quyền thương mại của cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền, bao gồm: kinh doanh nhượng quyền thương mại nếu không đáp ứng các điều kiện theo quy định.

Cấm buôn bán hàng hóa, dịch vụ trong ngoại thương; vi phạm nghĩa vụ tiết lộ thông tin trong thương mại quốc tế; thông tin triển khai NVTM chứa nội dung không công bằng; vi phạm quy tắc đăng ký kinh doanh quốc tế.

Vi phạm quy định về báo cáo thương mại quốc tế; không nộp thuế theo yêu cầu của pháp luật mà không tăng đến mức buộc tội hình sự; phớt lờ yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thanh tra, kiểm tra; vi phạm các quy định khác của Quy định số 35/2006/NĐ-CP.

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà biện pháp xử phạt có thể áp dụng là các chế tài quy định trong Luật tố tụng hành chính và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu hành vi vi phạm gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, các quy định này vẫn có hạn chế là chỉ mang tính nguyên tắc, chưa đủ chính xác để triển khai trên thực tế.

Nguyên nhân xảy ra tranh chấp

Trong các mối quan hệ nhượng quyền luôn tiềm ẩn những mâu thuẫn và xung đột lợi ích giữa các bên. Bên nhượng quyền cố gắng kiểm soát các hoạt động của bên nhận quyền càng nhiều càng tốt để đảm bảo quyền đối với tài sản đã mất rất nhiều thời gian và công sức để xây dựng.

Ngược lại, bên nhận quyền luôn muốn hạn chế sự can thiệp của bên nhượng quyền và phát triển thương quyền được chuyển giao theo ý muốn của mình.

Các vấn đề pháp lý liên quan nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Các vấn đề pháp lý liên quan nhượng quyền thương mại tại Việt Nam

Tranh chấp có thể phát sinh ở bất kỳ giai đoạn nào của quan hệ nếu không đạt được thỏa thuận để cân bằng lợi ích. Những tranh chấp này có thể phát sinh vì một số lý do:

Thứ nhất, bên nhượng quyền ảnh hưởng đến tính độc lập của bên nhận quyền, coi bên nhận quyền như một người làm công và áp đặt các biện pháp kiểm soát vô lý theo tinh thần của NQTTM.

Thứ hai, các bên đã sai lầm nghiêm trọng nếu cho rằng chỉ cần ký kết hiệp định ngoại thương là có thể  thành công. Nếu việc kinh doanh không thuận lợi, bên nhận quyền cho rằng đó là  lỗi của bên nhượng quyền. Đây là một lối suy nghĩ rất vô trách nhiệm.

Thất bại trong kinh doanh thực tế có thể do một số nguyên nhân

  • Thiếu giáo dục cơ bản, kỹ năng kế toán tài chính (không biết cách quản lý nhân viên, ngân sách)
  • Không có khả năng kinh doanh để đàm phán các hợp đồng khác nhau mà  doanh nhân phải ký kết. Ký kết (thỏa thuận với ngân hàng,  nhân viên,  nhà cung cấp dịch vụ)
  • Học và áp dụng kiến thức một cách hời hợt
  • Vốn kinh doanh không đủ.
  • Khi biết  đã quá muộn để sửa chữa những sai lầm trên, các bên thường đổ lỗi cho nhau, từ chối thanh toán và yêu cầu bên kia phải bồi thường thiệt hại.
  • Một trong các bên cố tình lợi dụng thương mại quốc tế bằng các biện pháp không công bằng.

Ví dụ: Một bên nhận quyền thu tiền, tham gia  mạng lưới của bên nhận quyền và sau đó biến mất. Networking chỉ với một mục tiêu duy nhất là bảo toàn sự tồn tại của công ty. Bên nhận quyền dự định có được bí quyết của bên nhận quyền thông qua hoạt động gián điệp, thâm nhập vào mạng lưới của bên nhận quyền sở hữu bí quyết.

Pháp luật điều chỉnh thương mại quốc tế mới  hình thành và  phát triển. Các quy định còn ở mức khung và  nhiều điều chưa được đề cập. Tuy nhiên, giai đoạn đầu đã tạo điều kiện thuận lợi, là bàn đạp cần thiết cho thương mại quốc tế và mang lại lợi ích cho nền kinh tế.


Tham khảo thêm về những thương hiệu nhượng quyền khác cùng Nhượng Quyền Việt, xem tại đây!

Để quảng cáo thương hiệu nhượng quyền, đăng tin cho thuê mặt bằng, đăng tin tuyển dụng vui lòng liên hệ với chúng tôi thông qua hello@nhuongquyenviet.vn

Rate this post
Translate »